Nợ riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân
Trong quan hệ hôn nhân của mình, nhiều người đôi khi không quá quan tâm đến việc làm ăn hay vay nợ của vợ hoặc chồng. Chỉ khi hôn nhân đổ vỡ; vợ, chồng mới băn khoăn suy nghĩ về nghĩa vụ như thế nào đối với khoản nợ riêng của người kia? Và khi nào nợ riêng của chồng mà vợ vẫn phải trả và ngược lại?
Trong thời gian qua, có nhiều người đến Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước nhờ trợ giúp về những khoản nợ riêng của vợ, của chồng trong thời kỳ hôn nhân, mà cả hai bên vợ, chồng điều không biết về số nợ của nhau; Họ cho biết, chỉ khi vợ chồng chuẩn bị ly hôn, yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; khi cung cấp chứng cứ, thì cả hai bên vợ, chồng đều đưa ra nhiều giấy biên nhận cho những khoản nợ riêng của mình. Tuy nhiên, cả vợ, chồng đều không bên nào thừa nhận các khoản nợ riêng của nhau. Sự đôi co tranh chấp này đang khiến vụ việc ly hôn của họ bị kéo dài và ảnh hưởng không ít đến tâm lý của các bên. Vậy, theo quy định của pháp luật giải quyết như thế nào đối với những khoản nợ này?
Qua trao đổi trực tiếp và qua nội dung đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý của các đối tượng, Trợ giúp viên pháp lý nhận thấy, tuy các vụ việc đều có nhiều tình tiết riêng khác nhau; nhưng cái chung vẫn là họ không thừa nhận các khoản nợ riêng mà bên kia đưa ra. Hiện nay, theo quy định của pháp luật về nội dung này, trong luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2014, tại Điều 60 quy định: trong trường hợp vợ chồng ly hôn có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba thì áp dụng quy định tại các điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết.
Điều 37 Luật HN&GĐ quy định vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây: (1) Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; (2) Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; (3) Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; (4) Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; (5) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường; (6) Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
Điều 27 Luật HN&GĐ quy định vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này và chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này nêu trên.
Đối với nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng Điều 45 Luật HN&GĐ 2014 quy định: nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này; nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình; nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.
Như vậy, vợ không biết về số nợ của chồng, chồng không biết về số nợ của vợ, có nghĩa là vợ chồng đã không có sự thỏa thuận về việc vay nợ và sử dụng số tiền này; việc vay nợ của mỗi bên cũng không phải thuộc trường hợp đại diện giữa vợ và chồng theo quy định tại Điều 24, 25 và 26 của Luật HN&GĐ năm 2014. Cho nên không được dùng tài sản chung của vợ chồng để thanh toán cho những khoản nợ này; có nghĩa là vợ, chồng phải chịu trách nhiệm riêng về khoản nợ do mình gây ra. Nếu các bên chứng minh được việc vay tiền để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như: ăn, ở, học hành, chữa bệnh…thì Tòa án cũng có thể quyết định vợ chồng có trách nhiệm liên đới trong việc trả nợ theo Điều 30 Luật HN&GĐ 2014. Cụ thể Điều 30 Luật HN&GĐ 2014 là: Quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên
Vậy những cặp vợ chồng đang ly hôn, chuẩn bị ly hôn cứ yên tâm, không phải băn khoăn về những khoản nợ riêng của nửa "bên kia" của mình./.
Anh Thơ - TGVPL