Ý nghĩa của việc điểm chỉ trong hoạt động công chứng, chứng thực
Việc điểm chỉ trong văn bản công chứng và chứng thực được quy định tại Luật Công chứng năm 2014 và Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch. Theo điều Luật và Nghị định trên, người yêu cầu công chứng, chứng thực, người làm chứng, người phiên dịch phải ký vào hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên, người thực hiện chứng thực. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể ký tên được. Do vậy, để thay thế cho việc ký tên trong các văn bản, giấy tờ đó thì các chủ thể tham gia giao dịch, hợp đồng sẽ thay thế bằng cách điểm chỉ?, vậy việc điểm chỉ có ý nghĩa như thế nào trong hoạt động công chứng hiện nay, để giải quyết vấn đề này ta tìm hiểu các điều Luật dưới đây:
- Việc điểm chỉ trong văn bản công chứng được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 48 Luật Công chứng năm 2014 quy định như sau:
“2. Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký…
3. Việc điểm chỉ cũng có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các trường hợp sau đây:
a) Công chứng di chúc;
b) Theo đề nghị của người yêu cầu công chứng;
c) Công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng”
Theo quy định trên ta có thể rút ra một số ý như sau:
Các trường hợp điểm chỉ trong văn bản công chứng được thực hiện trong các trường hợp sau:
+ Thay thế cho việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký.
+ Có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong các trường hợp:
Trong công chứng di chúc: kết hợp vừa ký vừa điểm chỉ, bên cạnh đó tại Điều 634 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định: “Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc”.
“Nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc (Khoản 3 Điều 631 Bộ luật Dân sự 2015)”
Như vậy, theo Bộ luật dân sự điểm chỉ là một trong những cách thức mà người lập di chúc có thể lựa chọn trong trường hợp người lập di chúc có khả năng ký tên hoặc là bắt buộc trong trường hợp người lập không ký được nhưng vẫn có thể điểm chỉ được, còn theo Luật công chứng việc điểm chỉ có thể thực hiện đồng thời với việc ký trong lập di chúc.
+ Theo đề nghị của người yêu cầu công chứng: Trong các văn bản, giấy tờ khác, nếu các đương sự muốn xác nhận mình hoặc những người khác cùng tham gia quan hệ pháp luật đó thì cũng có thể yêu cầu công chứng viên cho các bên cùng điểm chỉ vào văn bản.
+ Công chứng viên thấy cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu công chứng: Trong một số trường hợp cần xác thực người tham gia hợp đồng, giao dịch công chứng viên yêu cầu các bên tham gia hợp đồng giao dịch thực hiện đồng thời việc ký và điểm chỉ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho người yêu cầu công chứng.
- Việc điểm chỉ trong văn bản chứng thực được quy định tại khoản 3, Điều 36 Nghị định 23/2015/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch quy định:
“… Trường hợp người yêu cầu chứng thực không ký được thì phải điểm chỉ; nếu người đó không đọc được, không nghe được, không ký, không điểm chỉ được thì phải có 02 (hai) người làm chứng. Người làm chứng phải có đủ năng lực hành vi dân sự và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng, giao dịch.”.
Theo quy định trên, có thể thấy trong hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch việc điểm chỉ cũng được thực hiện thay cho việc ký nếu người yêu cầu chứng thực không thể ký được.
- Việc điểm chỉ được thực hiện như thế nào là phù hợp ?, theo quy định tại khoản 2, Điều 48 Luật Công chứng năm 2014 như sau:
+ Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải.
+ Trường hợp không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái.
+ Trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào.
Vậy việc quy định điểm chỉ có ý nghĩa như thế nào ?.
Sở dĩ pháp luật qui định về điểm chỉ có thể thay thế cho việc ký hoặc đồng thời với việc ký tên trong các văn bản, giấy tờ là vì theo các công trình nghiên cứu khoa học hiện nay, dấu vân tay mỗi người đều khác nhau. Không thể có chuyện có hai người có dấu vân tay giống nhau. Mặc dầu Luật Công chứng quy định các trường hợp có thể được điểm chỉ thực hiện đồng thời với việc ký, nhưng trên thực tế các tổ chức hành nghề công chứng thường đề nghị người yêu cầu công chứng thực hiện đồng thời việc điểm chỉ cùng với việc ký trong hầu hết các hợp đồng giao dịch. Lý do mà các tổ chức hành nghề yêu cầu điểm chỉ như vậy là để đảm bảo hơn việc xác thực người tham gia hợp đồng giao dịch, bởi không ít trường hợp các bên sau khi ký vào các hợp đồng, giao dịch nhưng sau đó vì lý do, mục đích nhất định đã chối bỏ, phủ nhận chữ ký của mình nên xảy ra tranh chấp khởi kiện đến Tòa án. Để có căn cứ chứng minh Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định chữ ký, cơ quan giám định lấy chữ ký trong văn bản công chứng, chứng thực, chữ ký mẫu hiện tại và thu thập các chữ ký mà người phủ nhận đã ký trước đó thì kết quả cho thấy ít có trường hợp cho ra kết quả chữ ký trùng khớp bỡi lẽ không phải ai cũng thường xuyên ký tên của mình vào văn bản, mặc dầu những người tham gia giao dịch đều khẳng định là của chính người phủ nhận chữ ký đã ký vào trong văn bản trước mặt của họ và công chứng viên, từ những nguyên nhân trên Tòa án không đủ căn cứ xác định đây là chữ ký của người đã ký vào hợp đồng, giao dịch từ đó dẫn đến gây thiệt hại cho các bên tham gia giao dịch.
Trong những trường hợp nêu trên, nếu không có dấu vân tay được lưu lại trên văn bản công chứng, chứng thực thì việc tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên, người thực hiện chứng thực và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chứng minh chữ ký của người đang phủ nhận là rất khó khăn. Dấu vân tay tồn tại suốt cuộc đời của một con người và nó sẽ không bị thay đổi về cấu trúc, đường nét theo thời gian. Nếu có thể thay đổi theo thời gian thì chắc chắn chỉ là sự thay đổi lớn lên của các mô mà thôi. Chính vì vậy, trong hoạt động công chứng việc điểm chỉ mang ý nghĩa rất quan trọng trong nhận dạng con người, thể hiện ý chí tự mình tham gia giao dịch mà không thể phủ nhận được góp phần tránh được các rủi ro tranh chấp, khiếu kiện không cần thiết.
Thu Thủy